Đây là bộ luật hình sự Nhật Bản cơ bản nhất, một trong những bộ luật cấu thành “Sáu Luật” của Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải tất cả các hình phạt hình sự đều được quy định trong Bộ luật hình sự và nhiều tội phạm được quy định trong Luật hình sự đặc biệt hoặc Luật hình sự đặc biệt. Hôm nay Công ty luật DFC xin được gửi đến bạn đọc toàn bộ chi tiết về bộ luật Hình sự Nhật Bản.
TẢI TOÀN BỘ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NHẬT BẢN:
Ba đặc điểm cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự của Nhật Bản đặc trưng cho hoạt động của nó. Đầu tiên, các tổ chức cơ quan Cảnh sát, các cơ quan công tố, tòa án và các cơ quan cải huấn của tổ chức giáo dục, giáo dục, mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhau, tư vấn thường xuyên về cách tốt nhất để thực hiện các mục tiêu chung là hạn chế và kiểm soát tội phạm. Thứ hai, công dân được khuyến khích hỗ trợ duy trì trật tự công cộng và họ tham gia rộng rãi vào các chiến dịch phòng chống tội phạm, bắt giữ nghi phạm và cải tạo người phạm tội. Cuối cùng, các quan chức quản lý tư pháp hình sự được phép tùy ý trong việc xử lý những người phạm tội.
Bộ luật hình sự Nhật Bản hiện hành bao gồm hai phần : Quy tắc chung thứ nhất (Điều 1 đến 72) và Phần thứ hai của tội phạm (Điều 73 đến 264).
Điều 1: Mục đích của Bộ luật hình sự Nhật Bản là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một cách nhanh chóng đối với các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến việc duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân.
CHƯƠNG I. THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
(Thẩm quyền theo lãnh thổ)
Điều 2: Thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà án được xác định bằng nơi xét xử, sinh quán hoặc trú quán của bị cáo hoặc nơi tội phạm bị phát hiện.
Một tội phạm xảy ra trên tàu của Nhật bản tại những địa điểm như quy định của đoạn trên có thể được đưa ra xét xử tại nơi tàu đó mang quốc tịch hoặc nơi mà tàu đó cập cảng sau khi tội phạm xảy ra.
Một tội phạm xảy ra trên tàu bay của Nhật Bản bên ngoài Nhật ngoài những nơi được mô tả như đoạn 1 ở trên sẽ được đưa ra xét xử tại Toà án nơi tàu bay đó hạ cánh (bao gồm cả nơi bốc cháy trên nước) sau khi tội phạm đã xảy ra.
(Nhập các vụ án có liên quan)
Điều 3: Trong trường hợp có vài vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các Toà án khác nhau mà có liên quan với nhau thì một Toà án cấp cao có thể xét xử bằng cách nhập các vụ án đó với nhau.
(Phân chia các tiến trình tố tụng)
Điều 4: Một Toà án cấp cao có thể trong trường hợp nhiều vụ án có liên quan có thẩm quyền xét xử khác nhau mà đang bị tạm hoãn mà không cần phải nhập lại với nhau thì có thể chuyển cho Toà án cấp dưới để xét xử.
(Sát nhập các thủ tục)
Điều 5:Trong trường hợp có nhiều vụ án có liên quan đang bị tạm hoãn bởi một Toà án cấp cao và một Toà án cấp dưới thì Toà án cấp cao có thể, kể cả có thẩm quyền xét xử vụ án đó vẫn kiểm tra và phán quyết giao cho Toà án cấp dưới xét xử.
Khi một vụ án thuộc thẩm quyền xét xử đặc biệt của một Toà án cấp cao chưa được xét xử và ngoài ra có một vụ án có liên quan lại thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới thì Toà án cấp cao có thể phán quyết nhập vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp dưới vào vụ án của mình.
(Sát nhập thẩm quyền xét xử trong các vụ án có liên quan)
Điều 6:Trong trường hợp có nhiều vụ án thuộc thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ khác nhau có liên quan đến nhau
(Phân chia tố tụng)
Điều 7. Trường hợp nhiều vụ án có thẩm quyền theo lãnh thổ là khác nhau, đang bị tạm hoãn trước một toà án và không cần thiết phải thẩm tra đồng thời, toà án này có thể quyết định chuyển giao cho toà án khác có thẩm quyền.
(Nhập tố tụng)
Điều 8. Trường hợp nhiều vụ án có liên quan bị tạm hoãn trước các toà án khác nhau cùng có thẩm quyền đối với vấn đề, mỗi toà án có thể, theo yêu cầu của công tố viên hoặc bị cáo, quyết định nhập vào một toà án.
Khi quyết định của các toà án trong trường hợp của đoạn trên không đạt được sự đồng thuận, toà án cấp trên trực tiếp của các toà án có thể, theo yêu cầu của công tố viên hoặc bị cáo, quyết định nhập các vụ án vào một toà án.
(Các vụ án có liên quan)
Điều 9. Nhiều vụ án được cho là có liên quan trong các trường hợp sau:
(1) Trường hợp một người phạm nhiều tội;
(2) Trường hợp nhiều người cùng phạm một tội, hoặc một tội riêng biệt;
(3) Trường hợp nhiều người cùng âm mưu thực hiện một tội phạm.
Các tội như chứa chấp người phạm tội, che dấu chứng cứ, khai báo gian dối, dịch hoặc giám định sai, và tội phạm liên quan đến đồ vật bị mất cắp và tội phạm mà người chủ mưu phạm tội được cho là đã thực hiện với các đồng phạm.
(Một vụ án bị tạm hoãn trước nhiều toà án)
Điều 10. Trường hợp một vụ án bị tạm hoãn trước nhiều toà án mà thẩm quyền xét xử đối với vấn đề là khác nhau thì toà án cấp trên có quyền thẩm tra.
Toà án cấp trên có thể, theo yêu cầu của công tố viên hoặc của bị cáo, quyết định toà án cấp dưới có thẩm quyền thẩm tra.
Điều 11. Trường hợp một vụ án bị tạm hoãn trước nhiều toà án mà thẩm quyền xét xử đối với vấn đề là khác nhau thì toà án có việc truy tố đầu tiên có quyền thẩm tra.
Toà án cấp trên trực tiếp có thể, theo yêu cầu của công tố viên hoặc bị cáo, quyết định toà án có việc truy tố sau thẩm tra vụ án.
(Thực thi trách nhiệm ngoài thẩm quyền)
Điều 12. Toà án có thể, trường hợp cần thiết nhằm phát hiện các tình tiết, tiến hành các trách nhiệm bên ngoài quận thuộc thẩm quyền.
Các quy định tại đoạn trên được áp dụng với những sửa đổi cần thiết đối với một lãnh đạo toà án.
(Sai thẩm quyền và hiệu lực tố tụng)
Điều 13. Tố tụng không mất hiệu lực vì lí do sai thẩm quyền.
(Sai thẩm quyền và biện pháp khẩn cấp)
Điều 14. Toà án có thể, cho dù không có thẩm quyền, tiến hành các biện pháp cần thiết vì mục đích phát hiện các tình tiết trong trường hợp khẩn cấp.
Các quy định tại đoạn trên được áp dụng với những sửa đổi cần thiết đối với một lãnh đạo toà án.
(Yêu cầu chỉ định toà án phù hợp)
Điều 15. Công tố viên phải yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp của toà án cấp sơ thẩm chỉ định toà án phù hợp trong các trường hợp sau:
(1) Trường hợp toà án phù hợp không thể được quyết định do sự mập mờ của thẩm quyền của toà án;
(2) Trường hợp không có toà án phù hợp khác liên quan đến trường hợp mà quyết định tuyên bố thẩm quyền không phù hợp có hiệu lực cuối cùng.
Điều 16. Khi không có toà án có thẩm quyền phù hợp theo luật, hoặc khi không thể khẳng định chắc chắn toà án này, Tổng công tố phải yêu cầu Toà án tối cao chỉ định toà án phù hợp.
(Yêu cầu chuyển giao)
Điều 17. Công tố viên phải yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp chuyển giao cho toà án khác trong những trường hợp sau:
(1) Khi toà án có thẩm quyền không thể thực hiện quyền tư pháp vì các lý do pháp lý, hoặc các tình huống đặc biệt;
(2) Khi sợ rằng không thể duy trì việc xét xử công bằng và trong sạch liên quan đến tình cảm của người dân trong quận, khía cạnh của tố tụng, hoặc các tình huống khác.
Bị cáo cũng có thể yêu cầu chuyển giao cho toà án khác theo mỗi khoản của đoạn trên.
Điều 18. Tổng công tố phải, trường hợp cho rằng an ninh sẽ bị xâm phạm do bản chất của tội phạm, thái độ của người dân trong khu vực quận, hoặc các tình huống khác, nếu toà án có thẩm quyền đang tiến hành tố tụng, yêu cầu Toà án tối cao chuyển giao cho toà án khác.
(Chuyển giao vụ án)
Điều 19.
Toà án có thể, khi thấy phù hợp, quyết định chuyển giao vụ án thuộc thẩm quyền cho toà án khác có thẩm quyền tương đương đối với vấn đề theo yêu cầu của công tố viên hoặc bị cáo, hoặc căn cứ vào thẩm quyền của chính mình.
Không được ra quyết định chuyển giao sau khi đã tiến hành thẩm tra chứng cứ.
Có thể kháng cáo ngay Kokoku quyết định chuyển giao hoặc từ chối yêu cầu chuyển giao bằng việc cho thấy nguyên nhân của việc này nếu lợi ích bị xâm hại nghiêm trọng do quyết định này.