Điều 410 BLDS quy định: “các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”. Có nghĩa là, các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu cũng được áp dụng với hợp đồng dân sự vô hiệu. Theo đó, hợp đồng dân sự rơi vào một trong những trường hợp sau thì bị coi là hợp đồng dân sự vô hiệu:
- Nội dung hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội ;
- Hợp đồng dân sự không có sự tự nguyện của các bên chủ thể;
- Không đủ năng lực chủ thể;
- Vi phạm quy định về hình thức;
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được;
Hệ quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu đó là không làm phat sinh quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập hợp đồng.
Điều 137 BLDS đã quy định những hậu quả pháp lý chung nhất khi hợp đồng dân sự vô hiệu: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
* Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết hợp đồng:
Hợp đồng dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập hay nói cách khác pháp luật dân sự không công nhận và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng vô hiệu ngay cả khi các bên đã thực hiện xong hợp đồng. Do đó, nếu hợp đồng mới xác lập chưa thực hiện thì các bên không thực hiện, nếu các bên đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, đối với hợp đồng chính và hợp đồng phụ thì :
- Trong trường hợp hợp đồng chính vô hiệu thì “sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ”( khoản 2 điều 410 BLDS). Bởi vì theo khoản 4 điều 406 BLDS “Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc vào hợp đồng chính”, hiệu lực của hợp đồng phụ phụ thuộc vào hợp đồng chính nên hợp đồng chính không có hiệu lực thì hợp đồng phụ cũng không có hiệu lực.
Hợp đồng chính vô hiệu làm“chấm dứt” hợp đồng phụ chứ không phải kéo theo việc làm vô hiệu hợp đồng phụ, khi hợp đồng phụ vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu còn khi hợp đồng phụ chấm dứt thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ không còn kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng, các bên không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.
- Khi hợp đồng phụ vô hiệu thì sẽ không làm mất đi hiệu lực của hợp đồng chính “Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính” (khoản 3 điều 410 BLDS 2005. Như vậy, sự vô hiệu của hợp đồng phụ sẽ làm mất đi hiệu lực của hợp đồng chính nếu như hai bên có sự thỏa thuận rằng đây là hai phần không thể tách rời nhau.
* Thứ hai, hoàn trả lại tài sản:
Khoản 2 điều 137 BLDS: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trang ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được tịch thu theo quy định của pháp luật..”. Do giao dịch không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên mong muốn đạt được khi xác lập hợp đồng, các bên khôi phục lại tình trang ban đầu, vì vậy, việc các bên phải hoàn trả lại những tài sản đã giao nhận trong hợp đồng là điều dễ hiểu.
* Thứ ba, Bồi thường thiệt hại:
Điều 137 BLDS 2005 chỉ ra hậu quả pháp lý của việc hợp đồng dân sự bị vô hiệu đó là : “Bên có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều đó cho thấy được dấu hiệu đầu tiên của việc bồi thường là việc có thiệt hại xảy ra và trách nhiệm chứng minh thiệt hại xảy ra trước tiên thuộc về bên bị thiệt hại.