Tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự
Mọi thông tin pháp lý liên hệ tổng đài 19006213 để được hỗ trợ tốt nhất.
Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm như sau:
Điều 111. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Phân tích tội hiếp dâm theo quy định của bộ luật hình sự:
Khách thể của tội phạm: Hiếp dâm là hành vi của một người hoặc một số người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ.
Tội phạm này xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người phụ nữ; nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của người phụ nữ; trật tự an toàn xã hội.
Mặt khách quan của tội phạm: mặt khách quan của tội phạm thể hiện bằng hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cáu với nạn nhân trái ý muốn của họ.
Dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh về thể chất như: vật ngã, giữ chân tay, bịt miệng, bóp cổ, đám đá, trói, xé quần áo nạn nhân….
Người phạm tội nhằm làm mất khả năng chống cư của nạn nhân để thỏa mãn dục vọng.
Đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói hoặc cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động trực tiếp vào người nạn nhân để nạn nhân hiểu rằng nếu không cho thủ phạm giao cấu thì có thể bị sử dụng vũ lực ngay.
Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân như nạn nhân một mình trong khu rừng vắng, trong đêm tối…
Dùng thủ đoạn khác là người phạm tội có hành vi de dọa dùng vũ lực uy hiếp tinh thần hoặc dồn ép họ hay lợi dụng tình thế không thể chống cự….làm cho họ khiếp sợ. Có trường hợp dùng chấy gây mê đề làm cho nạn nhân ngất xỉu, cho uống rươu say, uống thuốc kích dục để giao cấu.
Giao cấu trái ý muốn của họ là giao cấu không được sự đồng ý của nạn nhân. Muốn đánh giá thái độ của nạn nhân phải căn cứ vào diễn biến quá trình phạm tội và sự chống trả, phản ứng của nạn nhân.
Hiếp dâm người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh là trường hợp phạm tội lợi dụng các mối quan hệ gần gũi, niềm tin của nạn nhân như bố mẹ đến với con cái, thầy giáo đối với học sinh, thầy thuốc đối với bệnh nhân…để thực hiện hành vi hiếp dâm.
Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm có hành động giao cấu, không cần căn cứ là đã giao cấu xong hay chưa. Nếu người phạm tội chỉ mới có hành vi dùng bạo lực hoặc thủ đoạn khác nhưng chưa kịp giao cấu thì bị chặn lại thì phạm tội chưa đạt. Nếu nửa chừng chấm dứt tội phạm thì người phạm tôi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi thực tế đã gây ra như gây thương tích, làm nhục người khác….
Chủ thể của tội phạm: là những người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Mặt khách quan của tội phạm: tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
Hình phạt: điều luật quy định 4 khung hình phạt
Khung 1: quy định hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm và được áp dụng đối với trường hợp phạm tội không có tình tiết đinh khung tăng nặng ( khoản 1).
Khung 2: quy định hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm và được áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Có tổ chức
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Nhiều người hiếp một người;
+ Phạm tội nhiều lần;
+ Đối với nhiều người;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Khung 3: quy định hình phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân đến tử hình áp dụng đối với trường hợp phạm tội trong các trường hợp sau đây:
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Khung 4: Quy định khung hình phạt tù từ năm năm đến mười năm áp dụng đối với trường hợp hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Để xác định tuổi của nạn nhân, căn cứ vào giấy khai sinh của người đó.
Phạm tội đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại khác khoản đó
Hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Một số vấn đề cần lưu ý: nếu ban đầu nạn nhân kháng cự nhưng sau đó lại thuận tình thì không phạm tội hiếp dâm mà phạm tội cưỡng dâm.
Mọi nhu cầu xin liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ: Công ty Luật DFC, phòng 12B05, tòa nhà CT1, KĐT Văn Khê, Hà Đông Hà Nội. Hotline: 1900.6213.
Trân trọng cảm ơn!