Khi xem xét phạm vi áp dụng luật HNGĐ cùng những văn bản hướng dẫn, cần lưu ý những vấn đề sau:
Thứ nhất, lựa chọn văn bản pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào thời điểm xác lập quan hệ pháp luật HNGĐ
Từ thời điểm xác lập quan hệ HNGD đến khi có tranh chấp, quan hệ HNGĐ có thể chịu sự điều chỉnh của các đạo luật, văn bản hướng dẫn thi hành về HNGĐ khác nhau và tiếp nối nhau. Vì vậy, lựa chọn văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp là một vấn đề đã được các nhà làm luật quy định khi có sự thay đổi các đạo luật về HNGĐ.
Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội ngày 09/6/200 về việc thi hành luật HNGĐ năm 2000 quy định về việc Tòa án áp dụng pháp luật về HNGĐ để giải quyết các vụ, việc về HNGĐ như sau:
- Đối với những vụ, việc mà Tòa án đã thụ lý trước ngày 01tháng 01 năm 2001 thì áp dụng luật HNHGĐ năm 1986 để giải quyết.
- Đối với những vụ, việc mà Tòa án thụ lý từ ngày 01tháng 01 năm 2001 thì áp dụng luật HNGĐ năm 2000 để giải quyết.
Như vậy, với quy định trên cho thấy, cơ sở để lụa chọn luật áp dụng là luật HNGĐ 1986 hay luật HNGĐ 2000 để giải quyết tranh chấp là thời điểm Tòa án thụ lý tranh chấp.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định riêng một điều có là “ Điều khoản chuyển tiếp” (Điều 131) như sau:
Một là, quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày luật này có hiệu lức thì áp dụng pháp luật HNHGĐ tại thời điểm xác lập để giải quyết.
Hai là, đối với vụ việc về HNGĐ do Tòa án thụ lý trước ngày luật này có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp dụng thủ tục theo quy định của luật này.
Với các quy định mới tại khỏan 1 Điều 131 Luật HNGĐ 2014 thì thời điểm xác lập quan hệ pháp luật HNGĐ là thời điểm có ý nghĩa quyết định việc lựa chọn văn bản pháp luật áp dụng. Theo đó, tại thời điểm xác lập quan hệ HNGĐ, văn bản nào đang có hiệu lực điều chỉnh trực tiếp thì chính văn bản đó là cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ trước đây Luật HNGĐ đã có hướng dẫn nhưng nay đã được sửa đổi, bổ sung và có hướng dẫn thay thế thì áp dụng hướng dẫn mới. ví dụ, Luật HNGĐ 1986 đã có hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn. Khi có luật HNHGĐ 2014 cần áp dụng hướng dẫn mới của luật HNGĐ nmă 2014 để giải quyết ly hôn.
Thứ ba, những vấn đề đã có hướng dẫn trước đây nhưng nay chưa có hướng dẫn mới và hướng dẫn cũ không trái với quy định của luật mới thì có quyền và cần thiết phải áp dụng các hướng dẫn trước đây về việc áp dụng văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, việc vận dụng, áp dụng luật HNGĐ cần lưu ý đến yếu tố không gian, thời gian và tính lịch sử đặc thù của luật HNHGĐ. Luật HNGĐ năm 1959 có hiệu lực từ ngày 13/01/1960 ở Miền Bắc, những trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc một vợ, một chồng là hôn nhân không hợp pháp. Các quan hệ hôn nhân xác lập trước thời điểm 13/01/1960 không bị điểu chỉnh bởi nguyên tắc của luật HNGĐ 1959, vì vậy nam nữ dù có quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được coi là hôn nhân hợp pháp.
Ở miền Nam, ngày 25/3/1977, Hội đồng chính phủ ban hành Nghị quyết số 76-CP quy định về vấn đề hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước (trong đó có Đạo luật số 13 về HNGĐ). Những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng vẫn được công nhận là hợp pháp.
Trường hợp vẫn được công nhận là hợp pháp theo thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về HNGĐ của cán bộ, bộ đội có vợ chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ hoặc lấy chồng khác: Sau khi đất nước thống nhát ngày 30/4/1975, cán bộ, bộ đội ở miền Nam khi tập kết ra Bắc năm 1954 lại trở về đòan tụ gia đình dẫn đến một thực tế một người có hai vợ hoặc hai chồng. Về hình thức, việc kết hôn của họ là vi phạm trường hợp cấm kết hôn, tuy nhiên đây là trường hợp đặc biệt không bị coi là kết hôn trái pháp luật. Thông tư 60/TATC là trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp đặc biệt trên cơ sở xét đến hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, yêu cầu ổn định quan hệ giai đình phù hợp và giải quyết hậu quả đặc biệt của chiến tranh, một vấn đề xã hội phức tạp, vấn đề tình cảm, hạnh phúc gia đình nhất là của người vợ và con.
Về nguyên tắc, việc kết hôn chỉ có giá trị pháp lý khi hai bên nam- nữ tuân thủ các quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hơn. Tuy nhiên, thực tế do tác động của điều kiện lịch sử trong thời gian dài đất nước có chiến tranh, do ảnh hưởng của tôn giáo, phong tục, tập quán..nên có rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Mặc dù, đăng ký kết hôn là thủ tục công nhận giá trị pháp lý của việc kết hôn nhưng luật pháp Việt Nam đã có sự thừa nhận”hôn nhân thực tế” như một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử và khách quan trong những điều kiện cụ thể.